Chia sẻ Bpmn Là Gì – Hiện Tại Các Tổ Chức Có Quy

Nhận định Bpmn Là Gì – Hiện Tại Các Tổ Chức Có Quy là ý tưởng trong bài viết hôm nay của chúng tôi . Đọc content để biết chi tiết nhé.

Hế lô ajinomoto anh em. Hôm nay là thứ Sáu và anh em đang đọc blog thienmaonline.vn ????

Tiếp nối chủ đề của bài một về BPMN, hôm nay mình sẽ tiếp tục đi sâu hơn vào BPMN với chủ đề: Giải ngố các ký hiệu BPMN.

Bạn đang xem: Bpmn là gì

Vì tính chất bài này là giới thiệu, giải thích, nên mình sợ nó sẽ hơi khô khan với anh em. Do đó bài này mình đã cố tình chôm chỉa khá nhiều hình ảnh bỏ vào. Một phần để nhìn cho nó nguy hiểm, phần khác nó sẽ giúp anh em đỡ ngán, và dễ hình dung hơn.

*

Okay, let’s gooooo!!!

Điều đầu tiên mình muốn nói là nhìn BPMN nó tùm lum tùm la vậy thôi, chứ thật ra nó chỉ có… 6 cục chính.

Nắm chắc được ý nghĩa 6 cục này, thì dù có gặp hình BPMN phức tạp thế nào đi chăng nữa, anh em vẫn dễ dàng bỏ túi cái một.

Nội dung

2. Activities4. Gateways
1. Swimlane

Swimlane được xem như là linh hồn của BPMN, làm nó khác hẳn những diagram khác. Swimlane bao gồm Pool và Lane.

*

Một cái hồ bơi sẽ có nhiều làn bơi. Hồ bơi gọi là POOL, và làn bơi gọi là LANE.

Pool thể hiện một tổ chức, một bộ phận, một phòng ban, một vai trò hoặc một hệ thống nào đó. Còn Lane thể hiện các cá nhân riêng lẻ, người sẽ làm các hoạt động cụ thể.

*

2. Activities

2.1. Có 4 loại chính

Activity tập trung trả lời câu hỏi làm gì. Tức là nó mô tả tất cả các công việc có trong quy trình. Activity gồm 4 loại sau.

*

4 loại Activities của BPMN

Task và Sub-Process chắc anh em cũng dễ hiểu. Còn Transaction và Call Activity mình sẽ giải thích thêm chút xíu.

Transaction về cơ bản cũng tương tự Sub-Process, nhưng nó khác ở chỗ: transaction là một chuỗi các task thể hiện sự giao dịch, tức là có payment trong đó. Còn Sub-Process thì rộng nghĩa hơn. Ví dụ dưới đây cho anh em dễ hiểu.

*

Ví dụ về Transaction Activity từ BPMN-Guide

Còn Call Activity như mình có giải thích ở hình trên thì bản chất nó giống như: mình gọi lại (triệu hồi) một quy trình mà mình đã define trước đó rồi. Ví dụ.

*

Check Credit là quy trình được thực hiện nhiều lần trên hệ thống. Và quy trình này đã được vẽ ở một quy trình khác có trong tài liệu rồi. Nên giờ mình không cần vẽ lại nữa, mà chỉ cần “gọi” nó ra thôi. Do đó, anh em chỉ cần dùng ký hiệu Call Activity là được. (nguồn hình: BPMN-Guide)

Đó là tổng quan về 4 loại Activity:

Task: ô hình chữ nhật bình thườngSub-Process: ô hình chữ nhật nét đứt, có dấu cộng ở giữaTransaction: ô hình chữ nhật có 2 nét bao ngoàiCall Activity: ô hình chữ nhật có 1 nét bao ngoài rất đậm.

2.2. Các đồ nghề trang điểm khác

Anh em nắm rõ 4 loại trên là ô kê rồi. Tuy nhiên, để thể hiện được nhiều “ý đồ” nguy hiểm hơn thì anh em phải nắm thêm mấy cái lẻ tẻ khác, gọi là Activity MarkerTask Type.

*

Ngó có vẻ nhiều, nhưng anh em đừng hoang mang hồ ngọc hà quá. Cũng không quá phức tạp và khó nhớ lắm. Nói theo kiểu BA thì mình sẽ facilitate nó cho anh em, tức là làm cho nó dễ hiểu hơn.

Đầu tiên sẽ là…

Sub-Process

Cái này dễ ẹc, dẹp qua một bên.

Loop

Là hành động mà nó lặp đi lặp lại theo trình tự.

*

Loop Task

Ví dụ một hôm sếp yêu cầu anh em kể một câu chuyện hấp dẫn trong đêm Year-End Party của công ty. Anh em sẽ làm theo những bước sau: brainstorm với đồng bọn >> soạn thảo kịch bản nháp >> chỉnh sửa bản nháp >> hoàn thiện >> trình sếp để ổng duyệt.

Thì lúc này, bước Edit Draft là một bước được lặp đi lặp lại nhiều lần theo trình tự. Tức là sửa lần 1, sửa lần 2, sửa lần 3, sửa lần thứ “n”… Đến khi nào cảm thấy ổn rồi thì sẽ sang bước tiếp theo: Finalize story. Đó là Loop Task.

Multi-Instance

Đây là cái rất hay nhầm với Loop. Cái này cũng là hành động lặp đi lặp lại nhiều lần, nhưng nó cần các data set khác nhau.

Xem thêm: Mụn Cám Là Gì – Cách Trị Mụn Cám Hiệu Quả Tại Nhà

Ví dụ làm quy trình duyệt report. Case study đặt ra là: mỗi tháng Director sẽ duyệt report của các Manager.

Hành động duyệt các report này được thể hiện bằng một Task (tạm gọi là Evaluate Report), lặp đi lặp lại nhiều lần. Nhưng với mỗi lần duyệt, sẽ là một report khác nhau, được gửi từ các ông Manager khác nhau. Đó là các data khác nhau. Gộp lại sẽ thành một data set gồm nhiều data khác nhau.

BPMN 2.0 hơi màu mè hoa lá hẹ một chút là nó chia Multi-Instance ra làm 2 loại: song song (parallel) và tuần tự (sequential).

Song song tức là lặp đi lặp lại nhưng làm đồng thời, cùng một lúc. Ví dụ như ông sếp cùng một lúc duyệt các report.Còn tuần tự là xong cái này, mới tới cái khác. Ví dụ ông sếp duyệt report cho Manager A rồi mới tới duyệt report cho Manager B.

Quay lại với Loop, anh em có thể thấy Multi-Instance (MI) giống với Loop. Nhưng như mình nói, MI khác Loop ở chỗ nó đến từ nhiều data set khác nhau. Lấy luôn ví dụ phía trên cho anh em dễ đối chiếu.

*

Multi-Instance Task

Ví dụ ở bước Edit Draft, thay vì anh em phải tự edit lặp đi lặp lại nhiều lần, thì anh em có thể nhờ bạn bè, đồng bọn edit dùm.

Điều này có nghĩa: khi mỗi người bạn sửa dùm, họ sẽ gửi lại bản nháp mà họ sửa, tức đó là một data. Mỗi người bạn là mỗi bản nháp khác nhau, là mỗi data khác nhau. Các data này gộp lại sẽ thành một bộ data set gồm các bản nháp khác nhau.

Khi dùng MI Parallel, tức là cùng một lúc gửi cho cả 1 đống đứa cùng sửa.

Còn MI Sequential là gửi cho thằng A sửa, rồi lấy cái bản nháp của thằng A, gửi cho thằng B sửa, thằng A xong thì mới tới thằng B. Tiếp tục như vậy, sẽ gửi cho thẳng C, thằng D…

Để chi tiết hơn thì anh em có thể note vào quy trình, lặp lại bao nhiêu lần (hoặc một điều kiện bất kỳ) thì mới cho phép quy trình chuyển qua bước tiếp theo.

Ad Hoc

Cái này thì cũng không khó hiểu, nghĩa sao dịch vậy. Ad hoc tức là được hình thành khi cần thiết dành cho một mục đích cụ thể nhất định. Bà con hay gọi nôm na là “tùy cơ ứng biến”.

Vậy Ad Hoc Task sẽ thể hiện các task đặc biệt, có một mục đích chuyên dụng cụ thể.

Ví dụ một dealer bán xe, họ có quy trình làm việc với các ngân hàng rất rõ ràng. Nhưng riêng với ngân hàng BuTaLo-BaTaCho thì lại có quy trình làm việc khá đặc biệt, chỉ dành riêng cho ngân hàng này.

Do đó, anh em sẽ đưa quy trình này thuộc diện Ad Hoc. Và thường thì nó sẽ nằm trong một Sub-Process.

*

*

Người ta edit xong thì phải trả tiền. Task trả tiền chỉ xuất hiện khi có task thuê người edit tài liệu.

*

Phân biệt Send Task và Receive Task

User Task

User Task là task được thực hiện bởi người dùng, trên hệ thốngkhông thể tách nhỏ ra được nữa.

Manual Task

Manual Task là task được thực hiện bởi người dùng, ngoài hệ thống và được thực hiện một cách thủ công. 

Service Task

Service Task là task được thực hiện tự động bởi hệ thống.

Script Task

Script Task là task được thực hiện dựa trên một engine nào đó của hệ thống. Từ “script” ở đây có nghĩa là một đoạn code được viết ra để engine có thể parse đoạn code này chạy và thực hiện công việc.

Loại này mình thấy hiếm xuất hiện, bản thân mình thì cũng chưa từng dùng bao giờ hết. Nên thôi next nhẹ qua nhé anh em.

Xem thêm:

Business Rule Task

Lại một lần nữa, cái tên nói lên quá rõ. Business Rule Task thể hiện một task, mà task đó dựa vào một cái rule nào đó. Anh này thì cũng mới có trong BPMN 2.0 thôi. Ví dụ một phát cho nóng.

Chuyên mục: Hỏi Đáp