Phân tích Độ sâu trường ảnh là chủ đề trong content bây giờ của Tienkiem.com.vn. Theo dõi nội dung để biết đầy đủ nhé.
Bạn vui lòng chờ trong giây lát…
Độ sâu trường ảnh (Depth of field – DOF) là thuật ngữchỉ vùng khoảng cách trong không gian mà mọi vật thể thuộc vùng đó đềuhiện ra rõ nét trên ảnh.
![]() |
Một ví dụ về độ sâu trường ảnh. |
Theo Cambridgeincolour, DOF phụ thuộc nhiềuvào loại máy ảnh (kích cỡ phim hay cảm quang) và cách thiết lập ốngkính (khẩu độ, khoảng lấy nét). Khoảng lấy nét ở đây chính là khoảngcách từ mặt phẳng chứa điểm cần lấy nét tới ống kính.
![]() |
DOF và vùng trung gian chứa các chấm mờ (circle of confusion). Ảnh: Cambridgeincolour. |
Sự thực, mỗi ống kính chỉ có khả năng cho ảnh nétnhất tại một khoảng cách nhất định, sau đó, độ nét giảm dần về 2 biên.Tuy nhiên, hiện tượng mờ dần này khá nhỏ và có thể coi như “sắc nét”trong mắt người quan sát. Độ sâu trường ảnh cũng không thay đổi độtngột từ rất nét đến mờ mà luôn có một vùng trung gian chuyển đổi. Cácđiểm thuộc vùng chuyển đổi này xuất hiện trên ảnh dưới dạng chấm trònmà mắt người có thể nhận ra gọi là “Circle of confusion”. Một điểmthuộc vật không còn được coi là nét trên ảnh nếu ta nhận ra đó là mộtchấm tròn có kích thước lớn hơn 0,01 inch ở khoảng cách 30,5 cm khinhìn bản in cỡ 20 x 25 cm. Chấm tròn có kích thước nhỏ hơn 0,01 inchthường được coi là điểm tương đối nét.
![]() |
Một ví dụ về bokeh trên ống kính Canon 85 mm f/1.8. Ảnh: Wiki. |
Lưu ý rằng, độ sâu trường ảnh chỉ tác động đến kíchthước tối đa của vòng tròn mờ mà không diễn tả được hiện tượng gì sẽxảy ra với những vùng thuộc vật nằm ngoài khoảng lấy nét. Khu vực mờnày lần đầu tiên có tên gọi chính thức là “bokeh” vào năm 1997 trên tạpchí Kỹ Thuật Nhiếp Ảnh số tháng 3, 4. Nguồn gốc của từ xuất phát từphiên âm “bo-ke” trong tiếng Nhật nghĩa là mơ hồ, mù mịt. Hai bức ảnhchụp cùng một vùng không gian với độ sâu giống hệt nhau có thể chobokeh khác hẳn nhau do hình dạng các lá khẩu ống kính quyết định. Trênthực tế, các chấm mờ “Circle of confusion” không thực sự là một hìnhtròn hoàn hảo mà là một đa giác đều có từ 5 đến 8 cạnh hoặc thậm chílớn hơn, tương ứng với số lá thép đặt chéo lên nhau trong lòng ốngkính. Số cạnh càng nhiều, chấm mờ càng đạt trạng thái gần tròn. Khikhẩu độ ống kính mở hết cỡ, các lá thép xoay hết ra phía rìa ống kínhvà các chấm đạt trạng thái tròn hoàn hảo.
Kiểm soát độ sâu trường ảnh
![]() |
![]() |
Độ sâu trường ảnh (DOF) trong các trường hợp chỉnh khẩu độ của cùng một ống kính. Ảnh: Nikonians. |
Độ mở và khoảng lấy nét là hai yếu tố quyết định độmờ của hậu cảnh, tức là kích thước của chấm mờ ngoài vùng lấy nét xuấthiện trên cảm biến máy ảnh.Độ mở càng lớn (chỉ số F-stop càngnhỏ) và khoảng lấy nét càng gần thì vùng ảnh nét (DOF) càng ngắn haycàng nông. Khi DOF nông đến mức khoảng cách từ điểm nét gần nhất và xanhất chỉ còn khoảng vài milimet, rất hay xảy ra hiện tượng mờ ảnh (hayout nét) do sự thay đổi vị trí tương quan giữa máy ảnh và đối tượng cầnlấy nét, dù là nhỏ nhất. Bạn có thể bắt gặp điều này khi chụp ảnh macrotrong điều kiện thiếu sáng, bắt buộc phải mở khẩu lớn để tránh nhòe dorung lắc. Chẳng hạn, khi sử dụng ống Nikon 105mm f/2.8 AF Micro lắp lênthân máy crop như D300, tại khoảng cách lấy nét 0,4m thiết lập khẩu độf/4, DOF chỉ mỏng không quá 2mm – bất kỳ sự dịch chuyển nào của thânmáy trong quá trình chụp cũng khiến bức ảnh thu được bị mờ. Bạn có thểhạn chế nhược điểm này bằng cách tăng khoảng cách lấy nét hoặc khépkhẩu độ sâu thêm vài stop.
Ống kính góc rộng và tele
![]() |
Trong đa số trường hợp, hậu cảnh có xu hướng mờ đi khi tiêu cự của ống kính tăng lên. Ảnh: Flickr. |
Nếu vật thể chiếm cùng một diện tích trên kính ngắmmáy ảnh, nghĩa là hệ số phóng đại là như nhau đối với các ống kính gócrộng và tele thì độ sâu trường ảnh đối với các ống kính này là tươngđồng. Nhìn chung, trong đa số trường hợp, hậu cảnh có xu hướng mờ đikhi tiêu cự của ống kính tăng lên. Bảng sau sẽ cho thấy độ sâu trườngảnh tại thiết lập f/4,0 trên thân máy Canon EOS 30D (crop 1.6X).
Tiêu cự (mm) | Khoảng cách lấy nét (m) | Độ sâu trường ảnh (m) |
10 | 0,5 | 0,482 |
20 | 1 | 0,421 |
50 | 2,5 | 0,406 |
100 | 5 | 0,404 |
200 | 10 | 0,404 |
400 | 20 | 0,404 |
Ngay cả khi tổng độ sâu trường ảnh là cố định thì sựphân phối vùng ảnh tương đối nét phía trước và sau khoảng lấy nét chínhvẫn thay đổi theo độ dài tiêu cự.
Ví dụ:
Phân phối độ sâu trường ảnh | ||
Tiêu cự (mm) | Trước | Sau |
10 | 70,2% | 29,8 % |
20 | 60,1 % | 39,9 % |
50 | 54,0 % | 46,0 % |
100 | 52,0 % | 48,0 % |
200 | 51,0 % | 49,0 % |
400 | 50,5 % | 49,5 % |
Chính sự phân bố độ nét không đều làm tăng thêm sựphức tạp của khái niệm DOF, vốn chỉ giúp người ta mường tượng ra tổngđộ sâu vùng nét trong một bức ảnh. Bạn không cần quan tâm nhiều đến cácsố liệu trong bảng, tuy nhiên, cần nhớ trong đầu một quy tắc tương đốiđơn giản: với cùng một giá trị khẩu độ, khi càng tăng tiêu cự lên cao,vùng ảnh nét càng thu hẹp. Ngoài ra, cũng cần lưu ý, các ống kính cótiêu cự càng nhỏ (tức góc càng rộng) thì vùng ảnh tương đối nét phíasau điểm cần lấy nét càng sâu, rất thích hợp trong nhiếp ảnh đời thườngvà phong cảnh. Với ống kính tele thì điều này ngược lại, vùng hậu cảnhphía sau đối tượng lấy nét trở nên cực kỳ mờ do sự phân bố nét tại đâygiảm đi.
Độ sâu trường ảnh và độ sâu tiêu cự
![]() |
Độ sâu tiêu cự khi chỉnh khẩu độ ống kính. Ảnh: Cambridgeincolour. |
Độ sâu tiêu cự (Depth of focus hay Focus spread) làmột khái niệm có liên quan đến kích thước các chấm mờ. Khi vật thể đãđược lấy nét, cảm biến hay phim vẫn có thể di chuyển trong một khoảngnhỏ cỡ millimet mà ảnh thu được của vật vẫn nét. Khoảng cách này đượcgọi là độ sâu tiêu cự. Khi khẩu càng khép chặt, các chùm sáng đến từđiểm và đi qua ống kính càng có xu hướng bị thu hẹp. Kết quả là kíchthước các chấm mờ nhỏ lại và cảm biến có thể di chuyển một khoảng khádài mà ảnh vẫn tạm coi là sắc nét. Khi đó, độ sâu tiêu cự rộng hơn.Trường hợp ngược lại, khẩu mở to sẽ khiến độ sâu tiêu cự hẹp đi.Cầnphân biệt khái niệm này với khái niệm độ sâu trường ảnh để tránh nhầmlẫn khi đọc các tài liệu sử dụng ống kính và thiết bị nhiếp ảnh.
Một số chú ý khác
Phần lớn ống kính đều nét nhất ở đoạn giữa độ mở củanó, thường trong khoảng f/8 hoặc f/11. Việc giảm khẩu độ tới tối đa cóthể khiến ảnh đạt độ sâu lý tưởng nhưng đòi hỏi thời gian phơi sáng vàISO cao. Ngoài ra, khẩu độ khép quá hẹp có thể làm ảnh hơi mờ do hiệntượng nhiễu xạ. Điều này cũng lý giải tại sao kích thước lỗ sáng trongmáy ảnh pinhole không thể chế tạo nhỏ hơn cỡ milimet.
Các tác phẩm macro và chân dung thường đòi hỏi sựhoàn hảo trong bố cục hậu cảnh. Hậu cảnh quá lộn xộn làm giảm độ tậptrung của ảnh vào đối tượng chính và gây mất hiệu quả “xóa phông” trênống kính. Cần kiểm soát tốt độ sâu trường ảnh để tránh bị out nét haythu được một mớ lổn nhổn đằng sau như trên các máy compact cảm biến nhỏ.
Trần Hạ